(TITC) – Thốt nốt không chỉ là loại sản vật thiên nhiên ban tặng cho vùng Bảy Núi An Giang mà còn là biểu tượng gắn liền với đời sống và văn hóa của người dân nơi đây. Đã là “của trời”, cây thốt nốt mang đến nguồn lợi dồi dào, chỉ cần bỏ công sức chứ chẳng tốn kém gì. Vậy nên, xứ này mấy mươi năm thịnh hành nghề leo cây thốt nốt – một “nghề gia truyền” đầy thử thách nhưng cũng đậm chất thơ.

Nghề gia truyền giữa lòng Bảy Núi
Ông Chau Oanh Si (sinh năm 1959), từ Sóc Trăng về cư ngụ xã Văn Giáo (nay là xã An Cư) vào những năm sau giải phóng. Thời ấy, dân cư thưa thớt, xa thật xa mới có mái nhà nhỏ, và số lượng cây thốt nốt còn nhiều hơn đầu người. Không ai bảo ai, đàn ông trai tráng cứ nhắm thẳng loại cây này làm kế mưu sinh.
“Đài” hiểu nôm na là một cây thang bằng tre, được gắn sát vào cây thốt nốt, giúp người leo dễ dàng hơn. Dân thạo nghề đặt tre từ phum, sóc, lựa cây nào già, thân thẳng, ưng ý mua về, giá vài chục ngàn đồng/cây, xài bền đến 2 năm. Nhưng cũng không được chủ quan, vì đài tre ngày này tháng nọ chịu đựng nắng mưa, hư mục từ bên trong, mắt thường khó nhận thấy. “Nói đâu xa, mới tháng trước, tôi té từ cây cao 5 – 6m xuống đất, bị trật gân tay, mặt sưng húp, tạm thời “gác kiếm””, ông Si kể, giọng vẫn còn chút lo lắng.

“Đường thốt nốt mấy chục năm trước rẻ rề, chừng 2.500 đồng/kg. Ai làm giỏi, có thể nấu được 20 – 30kg/ngày. Đời sống vùng quê khó khăn, việc gì làm ra tiền thì mọi người xúm vào làm thôi, đâu có nhiều sự lựa chọn. Tôi có biết leo cây lấy mật thế nào đâu, cứ nhìn người ta làm rồi bắt chước. Còn trẻ thì tay chân cứng cáp, bám chắc vào thân cây, kéo thêm vòng dây ngắn dưới chân, chục bước đã tới đọt cây. Hết trẻ thì leo bằng đài tre, vừa leo vừa thủ thế cho chắc. Hầu như người leo thốt nốt nào cũng từng gặp cảnh té cây, chỉ khác mức độ nặng, nhẹ thôi”, ông Si thở dài.
Nhịp sống cùng “lộc của trời”
Nhưng nghề cũng chưa từng bạc đãi người chí thú làm ăn. Sáng sớm, khi trời chưa tỏ mặt, ông Si quẩy mấy can nhựa ra đồng thốt nốt, leo chuyền từ cây này qua cây kia, đến khi nắng gắt lưng thì trèo xuống, về nhà nghỉ ngơi. Cơm trưa xong, ông lại quẩy đòn gánh ra đồng, tìm mật cho đến lúc nắng chiều nhạt hẳn.

Ông chịu khó leo 30 cây/ngày, gom được 120 lít mật, đem về cho vợ nấu. Cứ 30 lít mật tươi nấu được 4kg đường. Bạn hàng mua 27.000 – 28.000 đồng/kg. Trừ tiền trấu đốt, ông bỏ túi 10.000 đồng/kg. Lấy công làm lời, không dư giả, nhưng không túng thiếu, đủ để trang trải cuộc sống.
Thốt nốt cho nước quanh năm nên cánh làm nghề không sợ thất nghiệp. Chỉ có điều tháng nắng thì nước sẽ nhiều hơn hẳn. Vô mùa Chôl Chnăm Thmây, thốt nốt hút hàng, nhu cầu tiêu thụ ở phum, sóc, chùa chiền tăng cao, cũng là “mùa vàng” của người leo thốt nốt. Loại cây này phát triển tốt quanh quẩn vùng Bảy Núi, đem đi xa thì vẫn cao lớn chứ chẳng góp mật cho đời.
Vòng đời của cây từ lúc trồng đến 30 năm sau mới cho nước, nên việc trồng cây kinh doanh là điều ít ai nghĩ tới. Có chăng, trái thốt nốt già rụng xuống, lẳng lặng mọc thành cây, trưởng thành từ mưa gió thuận thiên. Chủ đất cứ thế “hốt bạc”, cho thuê cây theo giá thị trường. Mắc thì 100.000 đồng/cây/năm, rẻ thì “mão” nguyên miếng ruộng, có bao nhiêu cây cũng tính đại khái 1 – 2 triệu đồng/khu vực. Tóm lại, cây thốt nốt đem lại nguồn thu cho con người, bằng cách này hay cách khác. Gọi là “lộc của trời” cũng chẳng ngoa.
Mà ngộ lắm, ngày nào cũng lấy mật thì ngày mai cây lại cho mật tiếp tục. Hàng ngày, người dân phải canh thời gian bông cho nước thích hợp để trèo lên cây lấy nước. Sau đó, họ dùng dao cắt một khoanh tròn mới ở phần đầu bông bỏ đi, tạo phần cắt mới để tích nước tiếp. Gián đoạn 1 ngày, nước ít hẳn.

Người làm nghề hạn chế nghỉ, bởi nghỉ ngày nào thất thu ngày đó, hôm sau đi làm chẳng bù lại được. Gắn bó mật thiết như thế, nên họ luôn nhớ rõ đặc tính từng cây: Đực hay cái, nước ngon hay dở, “trái tính trái nết” thế nào; đài tre tới tuổi thay mới hay chưa…
Nối nghiệp cha ông và tiềm năng du lịch trải nghiệm
Rồi thì, đời cha truyền, đời con nối. Lúc chưa biết chữ, anh Chau Cốp (sinh năm 1986) đã biết cách lấy mật thốt nốt, bằng cách lẽo đẽo theo chân ông Chau Oanh Si ra đồng.
“Trong 4 anh em, tôi lớn nhất, phải sớm phụ cha mẹ làm việc được chút nào hay chút đó. Nhìn đi nhìn lại, không có công việc gì thích hợp bằng nghề lấy nước thốt nốt. Năm 17 tuổi, tôi chính thức “ra nghề”, tự mình leo, không đi cùng cha nữa. Cảm giác ban đầu là sợ hãi, leo tới đâu run tới đó. Tới bây giờ, tôi theo nghề 22 năm, 2 lần bị té, cột sống bị ảnh hưởng phần nào”, anh kể, ánh mắt xa xăm.
Vòng đời lặp lại, giờ 4 đứa con lẽo đẽo theo anh Cốp ra đồng thốt nốt, ngó nghiêng quan sát cha thoăn thoắt trèo cây. Đứa lớn chưa đầy 10 tuổi, đứa nhỏ mới biết đi. Khi được hỏi “nếu tụi nhỏ muốn theo nghề thì sao”, anh trầm ngâm ít phút. Rồi anh bảo: “Trước mắt, tôi ráng lo cho tụi nhỏ được đi học đàng hoàng, tới đâu hay đó. Đứa nào muốn theo nghề thì tôi truyền nghề, chứ đâu thể cản nó được. Nghề tuy cực mà có đồng ra đồng vô, cũng là cách gắn bó với quê hương. Có khi tụi nhỏ sau này biết cách cải tiến, lấy mật thốt nốt khoa học, nhẹ công, năng suất hơn thì sao…”.
Chính cái nghề độc đáo, đầy thử thách nhưng cũng đậm chất văn hóa này lại ẩn chứa tiềm năng to lớn cho du lịch trải nghiệm. Du khách đến An Giang không chỉ được thưởng thức đường thốt nốt thơm ngon, mát lành, mà còn có cơ hội tìm hiểu về quy trình làm mật truyền thống, thậm chí có thể thử sức “vươn tay lấy mật của trời” dưới sự hướng dẫn của những nghệ nhân leo thốt nốt. Đây sẽ là một trải nghiệm độc đáo, giúp du khách hiểu sâu sắc hơn về văn hóa, con người và thiên nhiên của vùng Bảy Núi An Giang, góp phần tạo nên giá trị kinh tế bền vững cho người dân địa phương.

Thốt nốt Bảy Núi từ sản vật địa phương đến món quà du lịch đã trở thành một đặc sản không thể nhầm lẫn. Hương vị ngọt thanh, dịu nhẹ của nó đã chinh phục biết bao du khách, và ngày càng được biết đến rộng rãi.
Nước thốt nốt tươi là thức uống giải khát hàng đầu. Một ly nước thốt nốt mát lạnh, có vị ngọt dịu và một chút bùi béo nhẹ của cùi non, giúp du khách quên đi cái nóng gay gắt của miền đất An Giang.
Đường thốt nốt là sản phẩm nổi tiếng nhất không chỉ được dùng trong nấu ăn, làm bánh mà còn là món quà biếu ý nghĩa. Nó được cô đặc từ mật, có màu vàng cánh gián đặc trưng và vị ngọt rất “thật”. Từ đường thốt nốt, người dân địa phương đã sáng tạo ra nhiều món ăn độc đáo khác. Nổi tiếng nhất là bánh bò thốt nốt với màu vàng tự nhiên và hương vị đặc trưng, hay chè thốt nốt, thạch thốt nốt… Mỗi món ăn đều mang một câu chuyện riêng và là sự kết hợp tinh tế giữa truyền thống và sáng tạo.
Những sản phẩm này không chỉ được bán ở các chợ truyền thống mà còn xuất hiện tại các điểm du lịch, trên các trang thương mại điện tử, trở thành một phần không thể thiếu trong trải nghiệm của du khách khi đến An Giang.
Với sự độc đáo ấy, nghề lấy mật và sản phẩm từ thốt nốt đang trở thành một phần của du lịch trải nghiệm. Du khách ngày nay không chỉ muốn mua sản phẩm mà còn muốn hiểu về quá trình tạo ra chúng. Họ có thể đến các vườn thốt nốt, trò chuyện với những người thợ, lắng nghe câu chuyện về nghề, và thậm chí là tận mắt chứng kiến quá trình leo cây đầy mạo hiểm.
Việc thưởng thức một ly nước thốt nốt tươi mát, hay một miếng đường thốt nốt còn ấm nóng ngay tại vườn, sẽ mang lại một cảm giác rất khác biệt. Nó không chỉ là hương vị mà còn là cảm nhận về sự mộc mạc, chân thật của con người và đất trời nơi đây.
Nghề thốt nốt, dù vất vả, vẫn được tiếp nối qua các thế hệ. Anh Chau Cốp, người con của ông Si, đã tiếp tục công việc của cha mình. Dù vẫn lo lắng cho tương lai của các con, anh vẫn có một niềm tin: “Nghề tuy cực mà có đồng ra đồng vô, cũng là cách gắn bó với quê hương.” Anh còn hy vọng rằng, những người trẻ sau này, với tri thức và công nghệ, có thể cải tiến, làm cho nghề lấy mật thốt nốt trở nên nhẹ nhàng, khoa học và năng suất hơn, để “của trời” này mãi mãi là một món quà đặc biệt của vùng đất Bảy Núi.
Thốt nốt Bảy Núi không chỉ là một loài cây, nó là một câu chuyện về sự kiên cường, về tình yêu với quê hương, và là một di sản văn hóa đang được trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Đó chính là lý do vì sao, mỗi khi thưởng thức một sản phẩm từ thốt nốt, du khách không chỉ cảm nhận được vị ngọt, mà còn cảm nhận được cả tâm huyết và linh hồn của miền đất này.
Trung tâm Thông tin du lịch







